Thư ủng hộ Tuyên ngôn dân chủ tự do ngày 8/4/2006

Tuyên bố ra nhập Đảng Dân chủ XXI

 

Ảnh trên cùng là cụ bà Phạm Kim Thu đang đeo biểu ngữ đòi nhà cầm quyền CSVN trả lại quyền lợi cho cụ trong đó có bức ảnh chân dung liệt sỹ chồng cụ. Ảnh chụp của phóng viên dân oan Mai Xuân Thưởng-Hà nội.

Ảnh ngay dưới là thẻ bảo hiểm mang tên cụ Phạm Kim Thu quê tỉnh Tuyên Quang có hộ khẩu đăng ký tại trại bảo trợ xã hội tỉnh Tuyên Quang

Đôi lời của người viết: Cụ Phạm Kim Thu năm nay 80 tuổi, quê ở thị xã Tuyên Quang đã tha thiết gặp nhà báo Nguyễn Khắc Toàn và nhờ anh giúp đỡ tố cáo tội ác dã man của chế độ cộng sản Việt Nam ra trước công luận trong và ngoài nước. Đồng thời cụ cũng đồng tình viết thư ủng hộ công cuộc tranh đấu đòi dân chủ tự do cho đất nước mà Tuyên ngôn Tự do dân chủ 8406 là tiêu biểu. Nhà báo Nguyễn Khắc Toàn đã lược ghi và bài viết này và được kỹ sư Đào Văn Thụy- thành viên của Công đoàn độc lập Việt Nam viết tiếp theo lời kể và các tư liệu của cụ Phạm Kim Thu. Do kiến thức và thời gian của tôi có hạn, tôi không thể nói thay và nói hết  nỗi đau khổ của một cụ già 80 tuổi, một người có công với nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, bị chính nhà cầm quyền CS Việt Nam ngược đãi tàn tệ. Cụ Phạm Kim Thu trước đây  đã có rất nhiều đơn, thư gửi các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng  ( Chúng tôi phải bỏ mất nhiều thời gian mới đọc hết bộ hồ sơ của chị Phạm Kim Thu, trong đó có  hàng trăm đơn, thư thưa gửi đến các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng-trích Báo Quân đội nhân dân - số 9732 thứ ba 28-6-1988) nhưng nhà cầm quyền Việt Nam đều thờ ơ vô trách nhiệm  với đơn thư của cụ (Chúng tôi đã đến gặp giám đốc sở thương binh và xã hội… chi bộ đảng, chính quyền, công an…Tất cả đều cảm thấy “bế tắc”. Tại sao lại như vậy- trích Báo Quân đội nhân dân-số 9732 Thứ ba 28-6-1988) . Theo năm tháng, đơn, thư lại thêm dầy hơn nữa. Trong đó cụ có đơn, thư tố cáo Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Tuyên Quang là một loại trại giam trá hình, một địa ngục trần gian.  Cán bộ trại giam trá hình này đã đối xử với cụ, một bà già già yếu, cô đơn, một người “có công với cách mạng”. Nhiều lần cụ bị cán bộ trại này đánh đập, bóp cổ và dìm cụ xuống ao ngập bùn đen hòng âm mưu giết chết cụ. Những hành động dã man, tàn bạo, phi nhân tính của những kẻ mặt người dạ thú, của những kẻ có chức quyền trong bộ máy công quyền của tỉnh Tuyên Quang và cấp cao hơn thế cần sớm đưa ra ánh sáng trước công luận trong nước và quốc tế. Việc làm tội lỗi này của những kẻ nắm chức  quyền trong trại giam trá hình như trại bảo trợ xã hội tỉnh Tuyên Quang,  không chỉ xảy ra với một mình cụ Thu mà còn nhiều người khác là nạn nhân có hoàn cảnh tương tự như cụ. Đây lại thêm một bằng chứng tố cáo tội ác của nhà cầm quyền CSVN đã biến hóa các trại bảo trợ xã hội thành những giam trá hình, giam giữ những người dân oan kiên trì khiếu kiện chúng và kể cả những người có công với chúng.

        Chúng tôi đề nghị những người có lương tri, giàu lòng nhân ái trên thế giới và các tổ chức quốc tế hãy

:

        1, Làm sáng tỏ các vụ việc xảy ra tại các trại bảo trợ xã hội của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam mà rất nhiều đơn tố cáo về những vụ việc này chúng tôi đã đưa ra trước công luận.

        2, Dừng tài trợ cho các cho các tổ chức trại xã hội của nhà cầm quyền CSVN  vì thực tế hiện nay những tổ chức này đã bị nhà cầm quyền CSVN lợi dụng nhằm đàn áp những người dân lương thiện, những người dân oan đi  khiếu kiện và kể cả những người bất đồng chính kiến với đảng và nhà nước CSVN hiện nay.

Sau đây là toàn văn bức thư được cụ Phạm Kim Thu đồng lòng ký tên, chụp ảnh để công bố công khai.

         Kính gửi: - Cụ Hoàng Minh Chính nhà cách mạng lão thành, nhà hoạt động cách mạng dân chủ

- Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý.

- Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi

- Nhà nghiên cứu văn hoá Hán-Nôm Trần Khuê

- Nhà báo tự do Nguyễn Khắc Toàn

-Kỹ sư Đỗ Nam Hải

- Giáo sư Nguyễn Chính Kết

 


 

Tôi tên Phạm Kim Thu 80 tuổi, vợ của liệt sỹ Trần Hữu Ngọc.

Thường trú tại : Trung tâm xã hội tỉnh Tuyên Quang - Sở lao động thương binh xã hội.

Tôi là một người dân lương thiện, nguyên trước là cán bộ của sở nông nghiệp và trước công tác tại nông trường Đồng Giao tỉnh Ninh Bình, gia đình tôi là một gia đình có công với chế độ này. Năm 12 tuổi tham gia thiếu nhi tiền phong sau đó vào thanh niên tiền phong và trở thành du kích, làm cứu thương thuộc cục quân y liên khu 34…Hoà bình lập lại, tôi làm công tác phụ nữ ở nhiều nông trường quốc doanh và ở thị xã Tuyên Quang.

        Chồng tôi ông Trần Hữu Ngọc, nguyên là cán bộ miền nam tập kết năm 1954 ra miền bắc qua tỉnh Cà Mau. Và ông ấy là quân nhân công tác trong quân đội nhân dân Việt nam, nhập ngũ tháng 8/1947. Công tác tại Trường huấn luyện đặc công của quân khu đóng tại tỉnh Sơn tây (nay là tỉnh Hà tây) đến tháng 4 /1961 được lệnh đi chiến trường miền Nam và hy sinh cho chế độ này vào ngày 3/8/1967. Năm 1969 tôi đi đi bước nữa xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn Thương cán bộ tập kết công tác ở Trường dân tộc trung ương. Năm 1976 ông nhận nhiệm vụ quốc tế và bị thương nặng. Năm 1978 do vết thương cũ tái phát ông đã hy sinh và được nhà cầm nước cộng sản VN công nhận là liệt sỹ.

        Sau những năm tạm rời xa quê hương Tuyên Quang đem các con vượt hàng ngàn cây số vào Nam tìm tin tức và hài cốt người chồng đã hy sinh vào những năm sau khi chiến tranh ở miền Nam kết thúc ngày 30/4/1975. Được sự quan tâm, giúp đỡ của một số bạn bè đồng đội cũ của chồng, tôi đã đựơc gặp ông Nguyễn Văn Linh, lúc đó là bí thư thành uỷ thành phố Sài Gòn( Nay là thành phố Hồ Chí Minh) sau này ông làm Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam và ông Phan Văn Khải nguyên là chủ tịch UBND thành phố Sài Gòn sau này là thủ tướng chính phủ VNCS đã ký công văn số: 4585/UB-NC ngày 05/12/1988 gửi Sở nhà đất thành phố yêu cầu Sở nhà đất cấp cho gia đình chúng tôi một căn hộ số 193/135 Đường Nguyễn Cư Trinh-Phường Nguyễn Cư Trinh-Quận I-Thành phố Sài  gòn  tức  TP“Hồ Chí Minh” hiện nay. Khi ấy tôi những tưởng cuộc sống tuổi già đã được yên thân, được nhà nước và chế độ CSVN  hậu đãi với những gia đình đã có công lao xây đắp nên nhà nước và chế độ CSVN này, thì vào năm 1992, cán bộ phòng nhà đất Quận I- Thành phố Hồ Chí Minh xảo quyệt đã lừa tôi nói rằng hãy đưa giấy tờ nhà để họ “giúp đỡ làm sổ đỏ cho gia đình”. Sau đó, lợi dụng lúc tôi đi vắng họ đã cắt khoá cửa, vứt hết đồ đạc gia đình tôi ra đường,rồi chúng niêm phong nhà lại và đuổi ba mẹ con tôi ra khỏi nhà.  ( hiện nay căn nhà đó trị giá đến hàng nghìn cây vàng). Là một gia đình “có công với cách mạng CSVN” mà chúng nhẫn tâm đẩy gia đình tôi vào cảnh màn trời chiếu đất, tứ cố vô thân. Chúng hành xử đối với gia đình tôi như những kẻ không có lương tri, không còn đạo lý. Gia đình chúng tôi phải chịu những bất công nhưng chẳng biết kêu ai, rồi từ đó mẹ con tôi phải lần hồi sống đầu đường, xó chợ kiếm ăn từng bữa mong có ngày trở lại quê cũ. Sau bốn năm làm đủ mọi việc như nhặt rác, ăn xin, lượm ve chai và làm thuê …mẹ con tôi đã tích cóp được đủ một số tiền tuy rất nhỏ để về quê cũ Tuyên Quang. Mặc dù trong mấy năm sau tôi liên tục gõ cửa đến các cơ quan có thẩm quyền để kêu đòi công lý và đòi trả lại căn  nhà mà chính quyền CS thành phố đã cấp cho mấy mẹ con tôi, và gia đình tôi đã sinh sống nhiều năm trời tại đó.

        Song về được quê thì thật trớ trêu, là ngôi nhà cũ của tôi bằng tre nứa 4 gian cùng toàn bộ đồ đạc chiều rộng 70m, chiều dài 30 m sát nghĩa địa tại tổ 2 khu phố 2 phường Phan Thiết, thị xã Tuyên Quang, đó cũng là quê hương nơi chôn rau cắt rốn của các con tôi lại bị chính quyền tỉnh Tuyên Quang cướp đoạt trắng trợn, đặt thay vào đó là ngôi nhà xây để xe ô tô của ban chỉ huy quân sự thị xã Tuyên Quang (gọi tắt là thị đội). Trước cảnh bị mất nhà trắng trợn này, tôi đã tố cáo liên tục nhiều năm và hoàn toàn có đủ bằng chứng để khẳng đình chủ quyền của mình. Đã nhiều năm nay tôi đề nghị nhà cầm quyền trả lại đất cho tôi, để ở và thờ phụng người chồng liệt sỹ cùng gia tộc tổ tiên. Thế nhưng nhà cầm quyền tỉnh Tuyên Quang đã không thèm đoái hoài gì đến những lá đơn của tôi và cũng không coi truyền thống đạo lý dân tộc ra gì. Bởi vì khi đựơc đồng đội cũ báo tin về người chồng đã hy sinh tại mặt trận,nên tôi tức tốc lặn lội vào Nam tìm hài cốt chồng chỉ kịp khoá tạm trái cửa ngôi nhà tranh, vách đất tại Tuyên Quang tôi không hề bàn giao ai cũng như cho chính quyền.Vì tôi nghĩ rằng sau khi tìm hài cốt chồng xong sẽ quay trở về tiếp tục sống tại căn nhà tranh tre nứa lá đó. Nhiều năm nay tôi đề nghị nhà cầm quyền CSVN tỉnh Tuyên Quang trả lại nền nhà đất cũ cho tôi, để ở và thờ phụng người chồng liệt sỹ cùng gia tộc tổ tiên. Thế nhưng nhà cầm quyền tỉnh Tuyên Quang đã không thèm đoái hoài gì đến những lá đơn của tôi và cũng không coi truyền thống đạo lý dân tộc ra gì. Đứa con trai yêu quý của tôi, không thể chịu nổi sự đầy đoạ của nhà cầm quyền như mẹ nó, từ đó  bỏ đi mất biệt tích và tôi không biết có bị nhà cầm quyền bắt đi đâu hay mất tích nơi nào ( Nói đến đây cụ nấc lên từng hồi nghẹn ngào khóc con “Con ơi, con không thể bỏ mẹ già tội nghiệp này đi đựơc, con còn trẻ dại, con không thể biệt vô âm tín như vậy, nay con còn sống hay đã vùi thân, bỏ mạng nơi đâu…”)

     Đáp trả lại những gì tôi đã bị cướp mất vào tay chính quyền này, là tôi bị cưỡng chế vào trại bảo trợ mà thực chất là trại giam giữ trá hình nhằm làm thủ tiêu nỗi đau mất nhà, mất chồng, mất con của tôi để che dấu tội ác của các cán bộ cộng sản đã gây ra.

        Thế nhưng khi vào trại giam trá hình này cuộc sống của tôi như địa ngục trần gian dưói sự chỉ đạo của tên Lập-giám đốc trung tâm  cùng bọn đầu trâu, mặt ngựa ngày đêm chửi bới, nhục mạ, đánh đuổi tôi. Chúng đối xử vói một người già, cô đơn “ có công với cách mạng” như một con vật, như kẻ ăn hại báo cô của chúng.

        Thậm chí thị Hảo một nữ cán bộ của trại không nặn ra việc gì để hành hạ tôi, thị điên khùng vu vạ cho một cụ già là tôi lúc đó gần 70 tuổi tranh cướp người tình của thị. Một sự việc vu khống, nhục mạ, đê hèn không thể chấp nhận được trong các xã hội vốn tôn trọng truyền thống đạo lý làm người.

        Chúng luôn tìm mọi thủ đoạn thâm độc, quỷ quyệt để đối phó với một cụ già neo đơn, yếu đuối như tôi, phá hoại cuộc sống yên lành như việc chúng đã phá nát vườn rau, cây cối tôi trồng được trong trại để đày đọa, khủng bố tinh thần tôi.

        Dã man hơn, ngày 28/10/2006 được sự chỉ huy, xúi bẩy, kích động của tên Lập giám đốc trung tâm, tên Lương một cán bộ trong trại, một gã đàn ông bị thịt to béo, khoẻ mạnh đã xông vào bóp cổ tôi một cách hung hãn, gã lấy bát đập vào đầu tôi dã man. Tôi kêu cứu nhưng tên giám đốc Lập đứng gần đấy đã tảng lờ, Y còn cấm hai bảo vệ ở cổng không đựơc can ngăn, không cho tôi trốn thoát khỏi bàn tay của tên đồ tể Lương và mặc cho tên Lương dìm tôi xuống ao bùn đen ngay trong trại đó. Bị đánh đập dã man, tàn bạo tôi đã phải nhập viện điều trị. Vốn đã quá già yếu nên mỗi khi trái gió, trở trời vết thương cũ lại tái phát hành hạ tuổi già.

        Nhưng trong một đêm tối, do sơ ý của bọn cán bộ thực chất là bọn cai ngục trại giam trá hình đó tôi đã trốn thoát khỏi bàn tay độc ác, man rợ của chúng. Một mình già cả không tiền bạc tài sản, lang thang khắp đầu đường xó chợ xin ăn, sống dựa vào lòng tốt của những người dân hiền lành, nhân hậu rồi cũng tìm đến và nhập vào đoàn dân oan đi khiếu kiện ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng.

        Tất cả tài sản của tôi quần áo, nồi điện, ấm nước, chăn màn, bát đũa, ấm chén, bát hương thờ chồng và tổ tiên… vẫn còn trong trại tôi không dám trở về lấy, vì sợ bọn chúng bắt đựơc sẽ giết tôi như chúng đã rắp tâm.

        Tôi đã nhiều lần viết đơn tố cáo lên chính quyền các cấp nhưng họ không giải quyết, hiện nay tôi không nhà, không cửa, không chồng, không con, tứ cố vô thân neo đơn, già yếu. Tôi như ngọn đèn leo lét trước gió, sống ngày nào là chỉ biết dựa vào mấy bà con trong phong trào dân oan đùm bọc, giúp đỡ nhau. Còn nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lúc nào cũng rêu rao “đền ơn đáp nghĩa” đối với những người như tôi, nhưng sự thật chỉ là ráo mép. Vì vậy tôi đã nhờ nhà báo Nguyễn Khắc Toàn các cháu kỹ sư Đào Văn Thụy, Hồ Thị Bích Khương viết hộ bức thư này với mong muốn tố cáo tội ác của chúng đồng thời ủng hộ phong trào dân chủ ủng hộ cho sự đấu tranh đòi tự do, công bằng, bình đẳng cho nhân dân và cho tôi. Với mong muốn của tôi là đất nước sớm dân chủ tự do, công bằng bác ái, người với người biết thực sự yêu thương nhau, tương thân tương ái. Để sao cho cái ác, cái bất công đang tràn ngập trong xã hội hiện nay không còn được dung dưỡng nữa và phải bị trừng trị.

 Bây giờ tôi cũng xin phép được nói rõ với các quý vị, là trong mấy năm trời đi khiếu kiện tố cáo tại Mai Xuân Thưởng tôi không hề biết 1 xu kẽm nào của đồng bào hải ngoại gửi về giúp đỡ dân oan. Có chăng chỉ có một số rất ít bọn cầm đầu mối trực tiếp nhận tiền của đồng bào hải ngoại gửi giúp đỡ dân oan, rồi chúng chia chác bỏ túi ăn với nhau mà thôi. Thủ đoạn của chúng là sau khi kẻ cầm đầu và phe cánh chia chác xong các món quà đồng bào gửi về cho dân oan dù rất nhỏ, chúng lại tổ chức cho một vài người dân oan tay chân của chúng ký tá một vài chữ ký rồi xác nhận là dân oan trong nước, mà cụ thể là tất cả bà con Mai Xuân Thưởng đã nhận đủ số quà mà bà con gửi về để gửi sang hải ngoại làm tin tiếp tục lừa bịp sự hảo tâm của đồng bào hải ngoại vốn có lòng thương nước, thương nòi. Rồi có trường hợp, khi bà con hải ngoại đọc bài chúng viết về các nạn nhân trong nước thấy xúc động và thương tâm liền gửi về giúp đỡ họ thì chúng lại ăn chặn phần lớn số tiền còm ấy của bà con nghèo khổ còn  họ chỉ được nhận lại rất nhỏ bằng tiền Việt nam. Vì vậy tôi mong đồng bào cảnh giác kẻo chúng lợi dụng cả các quý vị và dân oan chúng tôi. Chứ ở đây không có ai ganh ghét đố kỵ hẹp hòi gì cả. Dân oan Mai Xuân Thưởng chúng tôi đã sống nhiều năm ở vườn hoa này biết rất rõ mọi thủ đoạn đê tiện bỉ ổi của chúng và không lạ gì những kẻ chuyên sống nhờ, sống dựa vào nỗi đau khổ của dân oan chúng tôi để săn lùng tìm kiếm ngoại tệ mạnh làm giàu cho cá nhân và gia đình chúng.

Thưa các quý vị và tất cả đồng bào trong cũng như ngoài nước Việt nam !

Tôi đã quá già cả không biết ăn không nói có, dựng chuyện để vu khống cho ai bao giờ, “ một lời nói là đọi máu ”, tôi nói là có trách nhiệm. Nên quý đồng bào hãy tin hoàn toàn những gì tôi nói đó là sự thật mà bao năm qua bị che dấu và dân oan chúng tôi không ai dám tố cáo những kẻ bất luơng trong nước đó, nhưng chúng lại khoác áo bênh vực dân oan nghèo khổ. Mỗi khi có người dám viết thư, đơn tố cáo đấu tranh vạch mặt thì chúng lại viết bài vu cáo xuyên tạc hạ nhục người ta rất hèn hạ gửi ra hải ngoại. Chúng tàn ác, gian manh không kém gì những kẻ có chức quyền đã gieo rắc đau khổ cho nhân dân chúng ta. Tất cả 2 đối tượng là nhà cầm quyền CSVN và kẻ bất lương trên đây, chúng đều là kẻ thù của dân tộc và dân oan Việt nam chứ không thể nhầm lẫn vào đâu được. Vì vậy tôi tha thiết một lần nữa mong đồng bào nêu cao tinh thần cảnh giác kẻo bị dối trá, lừa đảo mãi mãi. Cần thiết tôi sẽ viết thư gửi tới quý đồng bào để vạch mặt loại người có lòng dạ đen tối xấu xa này vào một thư riêng sau.

        Việc tố cáo của tôi như trên là đúng sự thật và tôi sẵn sàng trả lời báo chí trong nước, hải ngoại và quốc tế để tố cáo tội ác của những kẻ cầm quyền đã gây cho tôi bao đau khổ chồng chất. Hoàn cảnh của tôi chồng mất, con mất, nhà cửa cũng mất tôi đã không còn gì để mất thêm nữa dưới chế độ này. Tôi không sợ sự đàn áp, khủng bố của nhà cầm quyền cộng sản Việt nam. Tôi năm nay đã ngoài 80 tuổi chắc chẳng còn sống được bao lâu nữa, trước khi về với tổ tiên tôi chỉ nói những lời hay, lẽ thật để công luận biết được bộ mặt thật của những kẻ vốn giỏi tuyên truyền lừa mị để chiếm đoạt quyền bính tuyệt đối, tài tình xô đẩy nhân dân vào con đường cùng và thích thú quái gở: thích hành hạ nhân dân.

 Vậy thông qua thư này tôi đề nghị quý vị hãy ghi tên tôi vào phong trào đấu tranh chung của khối 8406 ngay đợt đầu năm 2007 này. Kèm theo thư này là các tài liệu, các ảnh tôi chụp cùng với ông Nguyễn Duy Huân là đồng hương tỉnh Tuyên Quang và cũng là một dân oan lâu năm. Cảnh chụp tôi đang đọc lại thư ủng hộ Tự do Dân chủ 8406 và các chứng từ phiếu thanh toán ra viện và hóa đơn mua thuốc khi tôi bị các cán bộ trại bảo trợ xã hội Tuyên Quang đánh đập gây thương tích năm 2004, cùng bút tích tố cáo do tôi trực tiếp viết. Văn thư của trung tướng công an CSVN Nguyễn Việt Thành trưởng ban chỉ đạo chống tham nhũng trung ương trả lời khi đã nhận được đơn tố cáo của tôi. Trường hợp của tôi đã gây xúc động đến nhiều người có lương tri sau khi báo Quân đội nhân dân trong nước đã đăng trên số ra ngày thứ ba 28/6/1988, số 9732 với tựa đề bài báo: “Vợ con liệt sĩ không nơi cư trú –Ai giúp đỡ giải quyết việc này ?” của tác giả Trần Hoàng và Phạm Đình Trọng. Sắp tới tôi sẽ công bố lại bài báo này để quý vị trong và ngoài nước biết về những kẻ ăn cháo đái bát, đã trắng trợn quay lưng vong ân bội nghĩa với những đồng đội của mình có công lao hy sinh xương máu để chúng có ngày hiển vinh quyền cao chức trọng, bổng lộc đầy mình như hiện nay như thế nào?

Khi tôi viết xong thư này thì được tin Linh Mục Nguyễn Văn Lý ở Huế bị nhà nước VNCS cho công an xông vào căn phòng nơi Linh mục đang ở nhiều năm để tịch thu mọi máy móc thiết bị làm việc của Ngài rồi sau đó bắt giam mang đi chỗ khác để quản thúc chặt chẽ hơn. Tôi được biết Linh mục là một trong những lãnh tụ của phong trào dân chủ 8406 Việt nam rất dũng cảm và can trường. Vậy đứng trước sự kiện tày trời này tôi lên tiếng đòi nhà cầm quyền CSVN ở đầu não trung ương Hà nội và tỉnh Thừa Thiên Huế hãy trả lại tự do cho linh mục Nguyễn Văn Lý ngay tức khắc không chậm trễ, cũng như phải trả lại mọi tài sản đã thu giữ phi pháp của nhà tu hành đáng kính yêu nước thương dân có tiếng này.

Cuối cùng tôi xin chân thành cám ơn các quý vị và toàn thể đồng bào đã quan tâm.

Viết từ ngày 03/ 02 đến ngày 02/3/năm 2007

Tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng Hà nội

Kỹ sư Đào Văn Thụy, Hồ Thị Bích Khương ghi theo lời kể của cụ bà Phạm Kim Thu tại Hà Nội

    Các tư liệu kèm theo còn rất nhiều, chưa đầy đủ vì lý do kỹ thuật.

 

 

                            

                                 Ảnh cụ bà Phạm Kim Thu

          

Các ảnh trên là ảnh cụ bà Phạm Kim Thu chụp cùng ông Nguyễn Duy Huân, đồng hương tỉnh Tuyên Quang và cũng là một dân oan từng bị nhà cầm quyền tỉnh Tuyên Quang bắt giam bỏ tù 17 tháng trái phép bất công. Khi chúng đưa ông ra tòa xét xử, do bị liệt hoàn toàn không đi được đã phải cáng và ông chỉ còn da bọc xương. Với lòng thương yêu nhân dân ông đã giúp đỡ rất nhiều bà con dân oan và có tâm huyết với dân tộc. Ông cũng là ủng hộ viên của khối 8406.

                              

Ảnh trên :   Cụ bà Phạm Kim Thu đang đọc tài liệu của Khối 8406 và đọc lại bức thư do Nhà báo Nguyễn Khắc Toàn,  kỹ sư Đào Văn Thụy và chị Hồ Thị Bích Khương ghi lại theo lời kể và các tư liệu của bà cung cấp.